Exryu

   France

  

 

Paris

        2018

 

 

« Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, ḷng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường… »
    

Chúng ta chắc ai cũng c̣n nhớ mẫu văn trên của văn sĩ Thanh Tịnh, trích trong bài văn « Tôi đi học », tả lại h́nh ảnh của một cậu bé lần đầu tiên đi học, bẽn lẽn nép trong tà áo mẹ…Một h́nh ảnh thật quen thuộc và dễ thương, mà chúng ta ai cũng c̣n lưu lại ở một góc nào đó trong tiềm thức…

 

Paris hôm nay và ngày tựu trường của các trẻ em tiểu học, và trung học, ngồi trong nhà nh́n ra ngoài cửa sổ, bên kia đường tấp tập những đám trẻ em và các cha mẹ, quần áo mới, cặp sách đi vào nhập học, ḷng không khỏi bồi hồi nhớ lại, những ngày thuở xưa thơ dại, thật xa và cũng thật gần…, khi c̣n cắp sách vở đi học ở quê nhà, và nhũ rằng thời gian qua thật nhanh …

 

Paris Gặp Gỡ đến với các anh chị trong bầu không khí pha trộn với những tiếc nuối của những dư âm ngày xưa, và những phấn khởi của ngày hôm nay, khi nh́n thấy, không c̣n là các con của chúng ta nữa, mà là các cháu nội ngoại trong nhà đang rộn ràng sửa soạn cho ngày nhập học sắp tới, sau những ngày tháng hè rong chơi…, phấn khởi, v́ tin tưởng rằng hậu thế của chúng ta đă có được một nền tảng vững chắc ở quê người…

 

Pais Gặp Gỡ đă nhận được sự cộng tác của nhiều các anh chị, chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự đóng góp của các anh chị, và sẽ đưa vào Paris Gặp Gỡ trong lần tới, rất gần đây, v́ lần này Paris Gặp Gỡ xin được giới thiệu với các anh chị sự đóng góp của anh Nguyễn anh Tuấn qua bài « Tháng Sáu Trời Mưa » hồi kư của anh trong chuyến trở về Nhật mùa xuân năm nay 2017, một cuộc hành hương của anh từ Kagoshima cực nam của Bản đảo đến Hakodate ở Bắc Hải Đảo của Nhật, và cũng cũng là một dịp để cho chúng ta, theo chân anh trở về với những kỷ niệm của những ngày tháng, của tuổi đôi mươi, khi chúng ta cón ở Nhật.

 

Chúng tôi không cần phải giới thiệu nhiều với các anh chị về anh Nguyễn anh Tuấn, chúng ta ai cũng biết và nghe nhiều về anh Nguyễn anh Tuấn, Exryu 69, đại học Himeji , hiện đang sinh sống ở bắc California. Anh Tuấn rất tích cực trong những hoạt động của Exryu Bác Cali, và Exryu toàn cầu. Anh Tuấn đă có nhiều bài hồi kư về Nhật được đăng tải trên mạng Exryu và gần đây nhất là hồi kư « Seisun no Hi «  của anh. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự công tác của anh Nguyễn anh Tuấn, mong rằng sẽ nhận được những bài vở khác của anh trong những lần sắp tới.

 

Mùa Hè đă đi qua, mùa Thu sẽ trở về, và rồi mùa Động cũng sẽ qua mau, để đến mùa Xuân năm tới 2018, Một mùa xuân mà chúng ta hằng mong đợi, mùa Xuân mà chúng ta lại có dịp gặp gỡ nhau tại Paris, sau hai năm mong đợi. Ban tổ chức hội ngộ Paris 2018 đang tích cực hoàn tất những chi tiết cuối cùng cho ngày hội ngộ, và vừa gặp mặt nhau, vào trung tuần tháng tám, ở nhà anh Nguyen minh Chính, trưởng ban tổ chức, ở Strasbourg, một tỉnh nằm về phía đông bắc của nước Pháp, giáp giới với nuc Đức để tổng kết t́nh h́nh và bổ túc những thiếu sót.  

Theo như chúng tôi biết, th́ chuyến du lịch miền nam nước Pháp, đă nhận được sự ủng hộ đông đảo của các anh chị, ngày hôm nay đă đạt được con số tối đa mà các hăng tổ chức du lịch đă đưa ra, v́ vậy một chuyến du lịch khác, cũng theo chiều hướng đó, sẽ được tổ chức để bổ túc cho sự hưởng ứng đồng đảo của các anh chị.

 

Cuối cùng Paris Gặp Gỡ xin có lời cầu chúc đến các anh chị và gia quyến những ngày tháng an lành, và các cháu, Exryu thế hệ thứ ba một mùa nhập học vui vẻ và nhiều thành công và chúng tôi rất mong đợi những công tác về bài vở khác của các anh chỉ để Paris Gặp Gỡ đươc phong phú thêm.

 

                                                                                                                   Paris Gặp Gỡ

 

 

 

gặp gỡ

 

 

 

Tháng Sáu Trời Mưa

 

                               

lỡ ḍng đời điểm tóc muối tiêu

c̣n giây phút chạnh ḷng như .. mới lớn !

(Thơ Nguyễn Tất Nhiên)

 

 

Gần hai tháng nay , từ khi rời Nhật trở về Mỹ , nhiều chuyện dồn dập xảy ra , nào mẹ tôi bị té phải nằm bịnh viện và rehap cả sáu tuần nay , nào những người bạn thân thời trung học , kẻ mổ túi mật , người đang nằm ở rehab bị trả lại bịnh viện Stanford để điều trị . Người như đi trên mây , tâm chưa tịnh và bồng bềnh th́ làm sao tôi có thể tập trung tư tưởng để ghi lại vài ḍng về quê hương thứ hai , Nhật Bản , sau chuyến đi mùa xuân vừa qua .

 

Bây giờ là tháng 6, nước Nhật đang vào mùa mưa , được gọi là tsuyu (梅雨). Tháng 6 , ở Mỹ là mùa tốt nghiệp , cũng là mùa bải trường . Lâu lắm, tôi mới viết lại hai tiếng "bải trường" . "Bải trường" nghe như một rung động nào đó vọng về từ một tiềm thức xa xưa . Xưa lắm rồi , có lẽ hơn 60 năm về trước . Nhớ về những hàng phượng vỹ nằm dọc theo trường tiểu học của tỉnh nhỏ ở miền Đông Nam Phần .

 

Những cây phượng nầy được chúng tôi đào lổ trồng , tưới nước hàng ngày . Năm đó tôi học lớp nh́ . Nhớ đến ngày đó năm xưa , những người bạn nhỏ , như Lê Văn Tốt , Đào Văn Sinh , Lê Công Thành , kẻ đă nằm xuống cho quê hương như Sinh tại Bến Lức  , vừa mới ra Khóa 1/68 Thủ Đức được chừng 6 tháng . Năm đó Sinh mới 20 tuổi . C̣n những người bạn nhỏ khác như Tốt và Thành th́ không c̣n nghe tin từ khi tôi đậu vào đệ thất .Mùa hè ở Mỹ không có phượng đỏ , nhưng có một loại cây giống như phượng , hoa màu tím . Lần nào đi về San Jose qua Milpitas , dọc theo freeway 680 , nh́n những cành phượng tím nầy  mà trong ḷng không khỏi bùi ngùi khi nhớ về mùa hè và những hàng cây phượng đỏ năm nào của một quá khứ thật xa.

 

Nhớ mùa phượng vỹ năm nào

Tiếng ve rả rích cổng vào trường xưa

(thơ của ai đó)

 

Mùa hè ở tỉnh lẽ , tôi không có đi học tư như ở Sài G̣n . Ban ngày , tôi cùng chúng bạn hàng xóm đi đào lổ để bắt dế . Đổ nước vào hang cho dế bị ngộm chui ra , tóm lấy , bỏ vào hộp , hay đi theo các chú tôi  đi cắm câu , ngày nào cũng có cá , không  cá rô , th́ cá trê , thỉnh thoảng có được vài con lương , đem về . Nếu ngày đó tôi biết món "Unagi Don"(), chắc có lẽ tôi sẽ làm món nầy , lươn được làm sạch , cắt ra từng khúc , rồi cắt trải ra như một miếng thịt (chứ không để khứa tṛn như lẩu lươn), nướng lên  chế lên vài muỗng sauce (かば焼きのたれ), và rắc lên "shichimi togarashi" (七味唐辛)). Khi miếng thịt lươn được nướng  xong , bỏ lên tô cơm nóng ... yummy ..  Mỗi lần đi Nhật , trước khi về Mỹ , tôi đều ghé lại cái tiệm nằm ở một cái mall dưới đường hầm ở nhà ga Shinjuku , gần chổ deiriguchi của Keio Shinsen (京王新線). Nó chỉ bán "Unagi Don" . Giá không rẽ lắm , khoảng 3,000 yen ~ 4,500 yen . Trở lại câu chuyện mùa hè của tôi ở tỉnh nhỏ , ban ngày là thế , ban đêm th́ tôi nghe chú sáu kể chuyện Tề Thiên đánh với Na Tra . Na Tra cỡi ṿng Càng Khôn đánh với Tề Thiên . Tôi nghe mê quá , ngày nào cũng bắt chú sáu kể cho nghe  . Tôi nghe và ngũ thiếp , chú bồng tôi vào giường gổ đặt ở nhà trên để ngủ với ông nội . Ngày đó miền Nam thật thanh b́nh . Tôi sống những ngày của tuổi nhỏ thật b́nh yên với ruộng đồng xanh ngắt bên lũy tre ngoài ngỏ .

 

Mùa xuân năm nay , tôi đáp Shinkansen  đi về miền nam nước Nhật, Kagoshima , cực nam của đảo Honshu , mà ngày xưa người ta gọi Kagoshima là "Satsuma no kuni (薩摩 ) " . Tôi đến nhà ga "Kagoshima Chuo Eki" khi trời vừa chạng vạng tối .

 

Tôi gọi taxi đi đến hotel, "Best Western Rembrandt" , nơi tôi sẽ ở đây hai đêm . Bác tài biết tôi là người ngoại quốc từ California đến viếng thăm thành phố cực nam nầy , bác có vẽ cảm kích , và giới thiệu đến tôi " やっぱり鹿児島というのは西郷さんと桜島ですね。”(Nói đến Kagoshima là nói đến Saigo-san và núi lửa Sakurajima). Saigo mà bác tài nói đến là ông Saigo Takamori (西郷隆盛) mà có lẽ có lẽ ai trong chúng ta cũng dịp xem phim "The Last Samurai" , phản ảnh h́nh ảnh và câu chuyện của ông Saigo Takamori , mặc dù trong phim , người ta cho "ông" cái tên là "Katsumoto" . Hotel Best Western Reambradt nằm cạnh bên bờ biển, ngó qua bên kia là Sakurajima.

 

Viết đến đây , "ngó qua bên kia là Sakurajima", nhớ đến vài câu thơ nói về "bên kia" , nói về sự tích "Chùa Phù Dung" ở Hà Tiên . Câu chuyện nói về một thiếu nữ nhà quê bị ông Mạc Thiên Tứ ép lấy làm thứ thiếp , anh chàng bị mất người yêu nh́n qua "bên kia" sông mà nhớ người xưa :

 

Ngó qua bên bến Tô Châu

Thấy em gánh nước trên đầu giắt trâm

 

Về sau v́ người vợ cả của Mạc Thiên Tứ quá ghen , người thứ thiếp tên là Tiên Dung , xin cắt tóc đi tu , tặng người yêu ở "bên kia" bến Tô Châu , và gởi về cha mẹ để tạ lỗi  cho trọn t́nh . Ngôi chùa nhỏ nàng Tiên Dung đi tu , về sau được bà vợ cả của Mạc Thiên Tứ trùng tu , gọi là "Chùa Phù Dung".

 

Tắm rửa xong , tôi đi xuống lobby hỏi tiệm ăn tối . Họ nói tôi phải đi ra Chuo eki mới có nhiều tiệm ăn hơn.  Nhân viên trong hotel cho tôi biết thêm, mấy hôm nay không có eruption, nên không thấy khói tỏa ra . Có lẽ để thấy khói trên đỉnh Sakurajima cũng phải có cái duyên như thấy Fuji-san với tuyết trắng xóa trên đỉnh trong một ngày đẹp trời . Thế mới biết , gặp được người nào , hay được thấy một cảnh vật nào , cũng phải có cái duyên của nó , mà tiếng Nhật gọi là "縁がある " (En ga aru).

 

Sau một chuyến đi xa , tôi cảm thấy hơi mệt mỏi , tôi làm biếng đi xuống phố , nên ghé qua "Seven Eleven" bên kia đường mua vài thức ăn cho tiện . Đúng như cho "tiện" (convenience store), người Nhật gọi là "Konbini". Khác với cái thuở ḿnh ở Nhật , hầu như không có những "Konbini" , nhưng bây giờ th́ "konbini" ở khắp ngỏ . Kế bên "Seven Eleven" , là một parking lot , và kế bên lại là một "konbini" nữa , tên gọi là "Lawson" . "Konbini" ở Nhật lớn hơn và bán nhiều thực phẩm , và đồ dùng hơn ở Mỹ . Ở đây người ta có thể mua "Cup Noodle" , và ăn tại tiệm , v́ có nước sôi , và đủa cho khách hàng cần ăn liền . Họ có bán salad , vài thứ rau cải , sushi , "oden" c̣n nóng bỏ trong tray , áo quần lót , kem đánh răng , basic mỹ phẩm cho các cô etc . Mặc dù hai tiệm cách nhau chỉ có các parking lot , nhưng tiệm nào cũng đông khách . Tôi có đọc một article nào đó nói về các "konbini" nầy , tác giả viết , có lẽ ngoài cell phone , "konbini" dính liền với đời sống của người Nhật trong thế hệ nầy .

 

Sáng hôm sau , tôi thức dậy sớm , ăn sáng trong hotel . Chổ ăn sáng nh́n qua bên kia là "Sakurajima" . Buổi sáng hôm nay thấy có một ít ánh nắng mặt trời , nhưng vẫn không có khói tỏa ra , trừ những đám mây vẫn c̣n che khuất đỉnh "Sakurajima" . Tôi nh́n ra biển rộng ở phía xa và "Sakurajima" , mà như nghe thấy một b́nh an trong ḷng .

 

Sakurajima (Kagoshima) nh́n từ hotel Best Western                                               Chiếc cầu dẩn vào I-shin Furusato-Kan, (維新ふるさと館)

 

 

Tin tức khí tượng cho biết hôm nay "kumori" (cloudy) buổi sáng , và có mưa về buổi chiều . Sau khi được người ở khách sạn chỉ cho "bus stop" , và time schedule , tôi đi đến bus stop . Trong khi chờ xe bus đến , tôi mới để ư thấymột cây nở đầy hoa , màu vàng (như một thuở , "aó nàng vàng tôi về yêu hoa cúc), không biết tên ǵ , định hỏi , th́ một cặp vợ chồng đứng kế bên , hỏi tôi biết tên của hoa nầy không . V́ tên của một loài hoa , tôi có bạn mới . Hai vợ chồng nầy đi cùng với hai người bạn nữa , lần đầu tiên họ đến Kagoshima như tôi . Họ đến từ thành phố Kamakura , và một ngạc nhiên khác là người chồng , cũng tốt nghiệp từ Yamanashi Daigaku , sau tôi một năm . Chúng tôi nói về thầy "Gakucho-sensei", Furuya-sensei , về campus nh́n thấy Phú Sĩ , trong những ngày mùa đông với tuyết phủ đầy trên đỉnh , về "Takeda Shingen" Jinja  (武田神社) nằm ở cuối đường trên con dốc thoai thoải dẩn đến trường . Hóa ra thế giới nầy nhỏ thật (it is a small world) . Người bạn mới , Sato Shu (佐藤修), cho tôi số phone và mời đến nhà ở Kamakura khi có dịp .

 

Tôi xuống xe bus ở "I-shin Furusato-Kan" mae (維新ふるさと館) , chúng tôi giả từ ở đây . Đi qua một chiếc cầu dẩn vào "Ishin Furusato Kan" , bên dưới là một con sông nhỏ chảy ra vịnh Kagoshima .

 

Mua vé xong, tôi bước vào bên trong , th́ được hai người , một người mặc âu phục có râu kẽm , và người kia th́ mặc kimono trên tay có bồng một con chó nhỏ " , ra tiếp đón . Hỏi ra , đó là hai ông:  “Okubo Toshimichi”, 大久保利通 (người mặc âu phục) , c̣n người kia là “Saigo Takamori” ,西郷隆盛

 

(from left to right)  Okubo Toshimichi, myself, Saigo Takamori

 

Thế là tôi được trở về của những tháng năm của "Minh Trị Duy Tân", được gặp gỡ hai vị "khai quốc công thần" của thời đại Duy Tân , 150 năm về trước . Tôi bước nh́n những h́nh ảnh của "Con Đường Đi ĐếnDuy Tân", 維新への道  , mà học hỏi thêm là công cuộc Duy Tân đă bước qua những chặng đường khó khăn và bị chống đối , chứ không như tôi tưởng , qua những bài viết mà tôi đọc được . Từ bức tâm thư của ông Godai Tomoatsu , một Nguyễn Trường Tộ của Nhật Bản , gởi cho lănh chúa Shimazu, 島津, của Satsuma-Han (Kagoshima ngày nay) vào tháng 6 năm 1864, sau khi chứng kiến hỏa lực hùng hậu của hải quân Anh đánh phá thành Kagoshima và uy hiếp lực lượng của Satsuma , khiến Satsuma phải mượn nợ của Tokugawa shogun trả chiến phí và thiệt hại cho Anh . Ông viết < để Satsuma hùng mạnh , ta cần phải học hỏi kỷ thuật của phương Tây . May mắn cho Nhật Bản là Shimazu biết và thấy được con đường phải đi . Tháng 2 năm 1865 , ông bí mật gởi 16 sinh viên (trong đó có ông Godai Tomoatsu) đến Anh , học về kỷ thuật, để thực hiện giấc mơ "Phú Quốc Cường Binh", 富国強兵, Fukokukyohei.Việc gởi sinh viên đi học phải giử bí mật , v́ lúc đó nước Nhật đang trong thời kỳ "Bế Môn Tỏa Cảng" của Tokugawa shogun . Dĩ nhiên là họ , kể cả lănh chúa Shimazu , khó toàn mạng , nếu Tokugawa shogun biết được . Sự kiện gởi sinh viên của Satusma đến Anh Quốc học hỏi , được gọi là "Satsuma Students , Go West",薩摩スチューデント西へ .

 

"Satsuma Students , Go West",薩摩スチューデント西へ 

 

Tôi cũng được hướng dẩn đến xem những h́nh ảnh của cuộc cách mạng kỷ nghệ mà xứ Satsuma , đă làm được trước thời"Minh Trị Duy Tân" , sau khi họ bí mật gởi những sinh viên đến Anh . Những máy truyền tin (Morse) , những "steam engine" cho máy tàu , những máy chụp ảnh trùm đầu phủ kín , những khẩu canon chế tạo theo kiểu Âu Châu , bắn đi xa hơn và chính xác hơn , mà Stausma làm được , đă là bước tiến quan trọng khởi đầu cho thời đại Duy Tân và cách mạng kỷ nghệ ở Nhật Bản từ thời điểm đó 

   

Xe bus của thành phố đưa tôi đến thăm Saigo Takamori Do Kutsu, 西郷隆盛洞窟, (Saigo Cave), nơi mà ông Saigo Takamori ẩn náo 5 ngày cuối cùng của cuộc nổi dậy. Cuộc nổi dậy nầy đă được phản ảnh phần nào qua cuốn phim The Last Samurai.

 

Saigo Takamori Do Kutsu, 西郷隆盛洞窟, (Saigo Cave)

 

Sáng ngày 24 tháng 9 , năm 1877 , 40 ngàn quân chính phủ bao vây vùng núi Shiroyama (城山), cứ điểm cuối cùng của lực lượng Satsuma samurai . Lực lượng của samurai chỉ c̣n khoảng 300 người (từ khoảng 20 ngàn người trong lúc khởi đầu đánh nhau với quân chính phủ ở Kumamoto). Ông Saigo cầm quân và bị trúng đạn ở bụng . Ông quyết định "harakiri" kết thúc đời ḿnh theo tinh thần vơ sĩ đạo (武士道) . Ông mất ngày 24 tháng 9 , năm 1877 , 49 tuổi .

 

Cuộc nổi dậy nầy đ̣i hỏi những quyền lợi cho giới samurai sau khi chế độ Mạc Phủ cáo chung khi vị Shogun cuối cùng , Tokugawa Yoshinobu, trao quyền hành lại cho Thiên Hoàng Meiji năm 1868 . Họ không có công ăn việc làm sau những cải cách về quân sự , và địa vị của samurai đă bị xóa bỏ trong xă hội mới nầy . Cuộc nổi dậy kéo dài 7 tháng , từ tháng 2 đến tháng 9 năm 1877 . 

 

Tôi đi bộ trên con đường dọc theo Shiroyama trong cơn mưa xuân lất phất , mà 150 năm trước đây , nơi đây đầy khói súng , ḥ hét , chém giếtThấy buồn chi lạ , cảm thông cho nổi buồn của một vị khai quốc công thần , vừa muốn duy tân đất nước , nhưng cũng bảo thủ muốn giử lại một nền tảng đạo lư truyền thống nào đó của một thời Edo .  

 

Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ ?

Mặt chinh phu ai vẽ cho nên. 

(Chinh Phụ Ngâm Khúc)

 

Ông từ bỏ chức vị cao sang trong chính phủ mới , sau khi những nguyện vọng của ông không được chấp nhận . Ông từ quan về Kagoshima dạy học và tưởng ḿnh sống một đời ẩn dật cho suốt cuộc đời . Nhưng các học tṛ của ông đă khiến ông nhập cuộc trở lại chính trường , và đưa đến cái chết của ông nơi đồi núi Shiroyama của xứ Satusma , nơi đă cưu mang ông trong suốt cuộc đời . Măi đến 12 năm sau (1889) , vị hoàng đế trẻ tuổi Meiji mới hiểu được hoài bảo của ông . Meiji Tenno đă xóa tội và xin lỗi ông .

 

Con đường đưa đến "Duy Tân" là do công lớn của hai địa phận Satsuma (Kagoshima) và Choshu (Yamaguchi ngày nay) , mà trong đó 3 ông Saigo Takamori (Satsuma, 薩摩藩), Okubo Toshimichi (Satsuma、薩摩藩) và Kido Tadayoshi (Chosu、長州藩), đă cùng hợp tác , gây áp lực về chính trị và quân sự và đưa đến sự sụp đổ của chế độ shogun , đem quyền hành về một mối cho Minh Trị Thiên Hoàng và đưa đến một nước Nhật hùng cường . Lịch sử nước Nhật gọi ba ông là "Duy Tân Tam Kiệt ",維新の三傑 , Ishin no San kestsu.  Sau cuộc Duy Tân thành công , cả ba ông đều mất sớm . Ông Saigo th́ "harakiri" tự kết liễu đời ḿnh , ông Kido th́ bị bệnh mất nằm 1877 . C̣n ông Okubo , cũng là một vĩ nhân của đất Satusma cùng thời với ông Saigo, th́ bị ám sát chết ở Yotsuya, Tokyo, năm 1878 , bởi một nhóm samurai của  Kanazawa , v́ ông không đặt quyền lợi của samurai trên quyền lợi của quốc gia , và ông có những cải cách rộng lớn , ôn ḥakhông quá khích như những nhóm samurai của một thời đại Edo đă qua !

 

Sang năm , 2018 , nước Nhật kỷ niệm 150 năm "Minh Trị Duy Tân" . mà Kagoshima là cái nôi của công cuộc Duy Tân . Các romen densha ( 路面電車) , street car , ở thành phố Kagoshima đă vẽ đầy các h́nh ảnh quảng cáo cho ngày lễ lớn nầy.

 

 2018, kỷ niệm 150 năm , Minh Trị Duy Tân (Street car, Kagoshima)

 

Trong đêm cuối , tôi được giới thiệu ăn đặc sản của Kagoshima là "kurobuta",黒豚 , Tôi được thưởng thức món "Kurobuta shabu shabu" . 

Sáng hôm sau , trước khi rời xứ Satusma , tôi ăn sáng ở khách sạn , nh́n qua Sakurajima , trời vẫn đầy mây , như không phải là khói bay ra từ Sakurajima . Lại một ngày nữa tôi không có duyên để thấy eruption của Sakurajima .

 

Ra đến nhà ga , Kagoshima Chuo Eki, thấy hàng chữ "ゆくさおじゃったもした”, Yukusa Ojatta Moshita" (Welcome to Kagoshima) , mà tôi mới học được mấy ngày hôm trước mà tự hỏi không biết Kagoshima ben có tiếng riêng khi nói tiếng giả từ hay không ?

 

Chuyến shinkansen "Sakura" rời Kagoshima Chuo Eki , lúc 9:48 sáng để đi về Shin-Osaka, Tokyo, và đến thành phố miền bắc , Hakodate , của Hokkaido .

 

Đến Shin Osaka , tôi đổi qua Tokaido Shinkansen đưa tôi về Tokyo . Đi ngang qua Kyoto , nhưng lần nầy tôi không có dừng chân nơi đây . Nóc chùa gần nhà ga Kyoto , như một dấu hiệu  ở đầu ngỏ cho thành phố của một thời .

 

Nóc chùa gần nhà ga Kyoto , như một dấu hiệu  ở đầu ngỏ cho thành phố của một thời .

 

Tôi mơ màng nh́n qua cửa kính :

 

lỡ ḍng đời điểm tóc muối tiêu

c̣n giây phút chạnh ḷng như .. mới lớn !

(Thơ Nguyễn Tất Nhiên)

 

Đến Tokyo , một lần nữa , tôi phải đổi qua Hokkaido Shinkansen để đi Hakodate . Tôi đến thành phố nầy lúc 9:48 phút tối . Từ Kagoshima đi Hakodate đúng 12 tiếng trên quăng đường dài trên 2000 km . Chính xác hơn là 2,021.7km .  Thành phố Hakodate nhỏ hơn Kagoshima , nhưng có vẽ ấm cúng hơn . Khách sạn tôi ở , Four Points by Sheraton Hakodate , cách nhà ga vài ba phút . Check in và tắm rửa xong đă 10:30PM . Đêm nay , tôi lại băng qua bên kia đường . ghé vào "Lawson" konbini , mua ḿ cúp đem về hotel dằn bụng . Tôi chọn "Curry Cup Noodle" mà bên Mỹ không thấy có bán . Nó có hai size , loại thường mà ḿnh biết , và một  một size lớn hơn . Size nầy bên Mỹ không có (You only see in Japan !) . Tôi mua hai cup . Định ăn một cup cho đêm nay , và để dành một cup đem về Mỹ kỷ niệm . Nhưng ăn đă quá , vừa  cay cay trong cái lạnh cuối đông c̣n sót lại , tôi làm luôn cúp "để dành" nầy .

 

Sáng hôm sau , tôi dậy sớm v́ cô receptionist ở lobby cho tôi biết , Hakodate nổi tiếng với "Asa Ichi Market",朝市, giống như Tsukiji ở Tokyo . Tôi đi đến đó , chỉ cách hotel tôi ở , khoảng 5 phút . Chợ nhỏ hơn Tsukiji , nhưng rất đông khách ... tàu . Ngoài tiếng Nhật và tiếng Anh ra , có tiếng tàu , tiếng Đại Hàn và một điều ngạc nhiên là có cả tiếng Nga , v́ Hokkaido rất gần Nga .  Dân chúng ở mấy thành phố cận đông của Nga đi Hokkaido shopping , du lịch , rẽ hơn đi Moscow . Ở đây , Nga có cả trung tâm văn hóa , và nhà thờ Orthodox .

 

                                                                                                                              bakugai, 爆買い,”Buy, buy, buy

 

 Đồ biển như cua nhiều và tươi hơn ở Tsukiji , nhưng đồ ăn ở đây giá không b́nh dân và nhiều chọn lựa như ở Tsukiji . Nhưng tiệm nào cũng đầy khách tàu . Trong "Asa Ichi" có một pharmacy , và ..cũng đầy khách tàu . Hiện tượng nầy người Nhật gọi là "bakugai, 爆買い, Tôi có gặp một người tàu và họ cũng nói với tôi là mục đích của họ đến Nhật là đi chơi v́ Nhật đẹp , và kế đến là "buy, buy, buy .." . Tôi ngoặc kép (" ") ở đây là dùng nguyên văn của anh chàng nầy nói với tôi . Theo anh , món hàng mà người tàu thích nhất là "nồi cơm điện" , v́ nó bền , đẹp , và "MADE IN JAPAN" . 

 

Tôi rời "Asa Ichi", đi thăm ṭa tổng lănh sự cũ của Anh Quốc khi Tokugawa shogun dưới áp lực của Mỹ , Anh và các xứ Âu Châu đă phải nhường bước , cho phép các xứ nầy mở lănh sự của họ . Nhưng ở những nơi mà Tokugawa cho phép (những nơi xa Edo/Tokyo) như ở Hakodate , Shimoda (ở Izu-hanto) . Về sau , dưới thời Minh Trị Thiên Hoàng , những lănh sự sự quán nầy đóng cửa và dời về những thành phốn lớn như Sapporo , Yokohama .. 

 

Tôi cũng đến thăm tượng cô thiếu nữ mang giày đỏ,  赤い靴の少女, akaikutsu no shojo zo , ở gần hải cảng Hakodate để kỷ niệm nơi đây cô thiếu nữ nhỏ bé , tên là Kimi,  chia tay người mẹ . Họ đến từ Shizuoka, v́ phải kiếm ăn , bà đi làm xa ở nông trại , bà gởi Kimi cho  vợ chồng mục sư người Mỹ chăm nuôi . Khi vợ chồng vị mục sư về Mỹ , v́ Kimi bị bịnh Kekkaku, 結核, (tuberculosis). Kimi không được phép đi  Mỹ , nên họ gởi Kimi vào cô nhi viện ở Azabu, Tokyo . Cô mất năm Minh Trị 44 (1911), lúc 9 tuổi . Điều thương tâm là người mẹ tưởng đứa con gái ḿnh đă được yên thân , hạnh phúc bên xứ Mỹ xa xăm kia.

 

cô thiếu nữ mang giày đỏ,  赤い靴の少女

 

 

Catholic Church, Hakodate                                                                                    Orthodox Church,Hakodate

Sau đó tôi đến viếng thăm công viên gần đó , họ tạc tượng kỷ niệm ông Matthew Perry (Commodore Matthew Perry) , khi ông đến đây tháng 5, 1854 . Một năm sau ngày chế độMạc Phủ mở cửa thông thương với Mỹ .

Có lẽ nơi được gọi là landmark của Hakodate là Meiji-Kan (明治館), nơi từng là là bưu điện đầu tiên của Hakodate được đặt ở đây . Và "函館 金森レンガ倉庫 (Hakodate Kanemori Red Brick Warehouse) .

函館 金森レンガ倉庫 (Hakodate Kanemori Red Brick Warehouse), Hakodate .

 

Hakodate cũng nổi tiếng với Hakodateyama yakei, 函館山夜景 , cảnh đẹp về đêm . Người Nhật cho rằng có ba cảnh đẹp của ba hải cảng về đêm đó là: Hakodateyama Yakei, Kobe Rokkosan Yakei và Nagasaki Inasayama yakei . Tôi đươc cơ may đi thăm Hakodate trong chuyến đi mùa xuân nầy và được Ṭng dẩn đi thăm Kobe Rokkosan yakei năm 2016 . Chỉ c̣n lại nơi chưa đi là Nagasaki .

 

Trước khi qua Nhật , tôi có mua JR Pass , được đi khắp nước Nhật trong 14 ngày . Tôi đă dùng 3 ngày ở Kagoshima , 3 ngày ở Hakodate . Thế là tôi c̣n lại 8 ngày nữa . Tôi trở về Nara để đi cho biết Yoshino-Mura (吉野村) , Nara-ken , nơi nổi tiếng với 30 ngàn cây hoa anh đào khi mùa xuân về . V́ không có made reservation trước , tôi không lấy được pḥng ở Yoshino . Thôi th́ đành phải lấy khách sạn ở Nara , rẽ hơn gấp đôi , nhưng phải chịu khó đi xe điện khoảng một tiếng đồng hô đến Yoshino . Hoa anh đào ở vùng núi Yoshino nở sớm nhất là ở phía thấp , gọi là "Shimo-senbon, 下千本", kế đến "Naka-senbon、中千本", lên cao một chút nữa là "Kami-senbon、上千本" và trên cùng , sâu nhất gọi là  "Oku-senbon、奥千本" . Khi tôi từ Hakodate ở Hokkaido trở lại Nara , hoa anh đào vùng Kansai hầu như đă rơi rụng gần hết , nhưng cũng may mắn , là anh đào ở "Kamisenbon" và "Okusenbon" c̣n đang nở rộ , v́ mọc ở phía trên cao của vùng đồi núi Yoshino . Nh́n hàng trăm cây hoa anh đào nở dọc theo triền núi , trong thung lũng rực trắng , và hồng của màu hoa , thấy cả một bầu trời bao la rộng mở .

 

Kami-senbon、上千本, Yoshino, Nara

 

Và như thấy cả không khí mùa xuân ùa vào lồng ngực. Con đường đi lên cao tràn ngập hoa anh đào hai bên đường . Người như nhập thể vào hoa để dịu dàng đón lấy những cơn gió xuân thoang thoảng về với núi đồi Yoshino . Đêm hôm đó tôi trở về hotel ở Nara . Tôi thả bộ đi dọc theo con phố chính của thành phố , từ nhà ga Nara đi đến Kasuga Taisha (春日大社) .

 

 

Kasuga Taisha, Nara

 

Con phố không cổ kính như ở Kyoto , cũng không hào hoa như ở Omote-Sando , Harajuku, Tokyo . Lịch sử viết là nhà ga Nara đă được trùng tu 2 lần từ khi được thành lập năm Meiji thứ 23 (1890) . Tôi không thấy h́nh ảnh nguyên thủy của nhà ga Nara như thế nào , nhưng nhà ga Nara của ngày hôm nay không có khác chi nhà ga Nara mà tôi xem trong phim "Escapade in Japan", tiếng Việt dịch là "Trốn Chạy Khắp Nước Nhật " , đúng như nội dung của cuốn phim , hai đứa bé khoảng 8-9 tuổi , một Mỹ, một Nhật , v́ một sự hiểu lầm , đă trốn chạy khắp nước Nhật và , câu chuyện chấm dứt ở Nara , khi cha mẹ của hai cậu bé và cảnh sát t́m thấy hai cậu trên nốc chùa "Todaiji (東大寺) . Cuốn phim làm năm 1957 , và tôi mua được DVD của phim nầy trên eBay mấy tháng trước . Xem lại để nhớ ngày xưa ông nội tôi dẩn tôi đi xem phim nầy ở rạp Kinh Thành (Tân Định) . Có lẽ v́ thế tôi mê  Nhật và được diễm phúc đi học ở Nhật . Tôi đi dần về phía Kasuga Taisha . Buổi chiều vắng người , tôi có dịp đi sâu vào trong Kasuga Taisha , để thấy có nhiều jinja nhỏ ở phía trong sâu , cầu an , cầu hạnh phúc gia đ́nh , cầu hạnh phúc cho vợ chồng . Và những restaurant nho nhỏ nằm thoai thoải trên con đồi nhỏ ở cuối đường của thần xă ra đường cái . Nó dể thương , như những cái cḥi nhỏ trong phim hoạt họa của Disney .

 

dể thương , như những cái cḥi nhỏ trong phim hoạt họa của Disney

 

Nara                                                                                                                                                    chùa số 12 , Shousannji, 焼山寺, Tokushima-ken

 

Và qua bên kia đường là một cái hồ không lớn mà cũng không nhỏ lắm , thơ mộng bên những hàng liễu rũ trong ánh nắng cuối ngày.

Ở đây mấy ngày , đi bộ ṿng quanh thành phố , mới thấy Nara cũng là nơi đáng đến thăm , và con người ở Nara cũng có cái ấm cúng , hiếu khách , của một cố đô  .  Viết đến đây , tôi nhớ đến câu thơ của "thi sĩ exryu" , Trần Cơ Lộ (viết 1973) :

 

Thôi th́ trở về bỏ chuyến đi Nara

Lục lọi sách báo t́m bài thơ lạ 

 

Không biết v́ lư do ǵ Trần Cơ Lộ bỏ chuyến đi Nara , hay là một con nai vàng ngơ ngác nào của xứ Nara , làm thi sĩ "giận hờn" bỏ chuyến đi . Hy vọng , sau đó th́ chàng thi sĩ trẻ nầy tiếp tục chuyến đi đă bỏ lỡ đó , để thấy Nara cũng là một chốn đáng yêu sau những giận hờn .

 

Tố c̣n vài ngày nưà để dùng JR Pass , trước khi trở lại Tokyo về Mỹ . Thôi th́ tiếp tục đi henro (pilgrimage) ở Tokushima (徳島). Lần nầy , tôi tiếp tục đi từ chùa số 11 , Fujiidera, 藤井寺 , đi đến chùa số 12 , Shousannji, 焼山寺, Đoạn đường dài khoảng 12.9 cây số . Thời gian cần thiết từ 4 đến 6 tiếng .

Đường đi khó v́ phải leo núi , gập ghềnh , đá và đá . Có nhiều chổ khó leo , dể làm nản chí kẻ hành hương . Những đoạn đường khó đi nầy được gọi là "Henro korogashi"、遍路ころがし.

 

Henro korogashi"、遍路ころがし, Tokushima-ken

 

Cảnh bên  đường đi henro từ chùa #11 (Fujiidera) đến chùa #12 (Shoosanji), Tokushima-ken

Một nông dân  bên  đường trên đường đi henro từ chùa #11 (Fujiidera) đến chùa #12 (Shoosanji), Tokushima-ken

 

Cảnh bên đường đi henro từ chùa #11 (Fujiidera) đến chùa #12 (Shoosanji), Tokushima-ken

 

Trên đường đi henro , mùa xuân 2017, Tokushima-ken

 

 

Hai người hai ngả, ai buồn hơn ai !

 

Thời gian đă hết, tôi rời Tokushima (徳島) đi qua ngỏ Takamatsu (高松)đến Okayama (岡山) , rồi từ đó đón shinkansen về lại Tokyo . Những cơn mưa xuân đón tôi đến và đưa tôi đi . Tôi rời phi trường Narita trong một ngày cuối xuân trong cơn mưa phùn.

Tôi bỏ lại sau lưng đoạn đường dài đi từ chốn cực nam, Kagoshima,  của đảo Honshu lên Hakodate , điểm cực nam của đảo Hokkaido . Đi qua những cánh đồng nhà quê của Tokushima và những đồi núi của vùng Yoshino , tiếp xúc với những người dân quê , những ohenro-san , hiểu thêm về con người và văn hóa nước Nhật Bản. Tôi xin được cám ơn trời và cám ơn người , đă cho tôi được diễm phúc đó.

 

Mùa hè năm 2017

 

Nguyễn Anh Tuấn

(Bắc Cali)

 

 

 

 

Hội Ngộ Paris 05 2018